Tội phạm là thể thống nhất giữa mặt chủ quan và mặt khách quan. Vì vậy, ngoài việc tìm hiểu biểu hiện bên ngoài thế giới khách quan của tội phạm; việc tìm hiểu hoạt động tâm lý bên trong của tội phạm cũng rất quan trọng. Vậy mặt chủ quan của tội phạm là gì? Bài viết này của Luật sư X sẽ cung cấp cho bạn những kiến thức xoay quanh vấn đề này!
Căn cứ pháp lý:
Mặt chủ quan của tội phạm là gì?
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm. Đó là những biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội; bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.
Mặt chủ quan của tội phạm có những dấu hiệu: lỗi, mục đích và động cơ. Trong đó; lỗi được phản ánh trong tất cả cấu thành tội phạm (CTTP).
Các dấu hiệu của mặt chủ quan của tội phạm
Dấu hiệu lỗi của mặt chủ quan của tội phạm
Căn cứ vào mặt hình thức có thể định nghĩa lỗi như sau: Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả hành vi do mình đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc có thể chia lỗi thành các loại như sau:
– Lỗi với vấn đề tự do xử sự và và trách nhiệm hình sự
Trong trường hợp này đứng trước các nguyên nhân khách quan đó; họ đã hoàn toàn tự do lựa chọn một biện pháp xử sự; đó là thực hiện hành vi phạm tội; nên họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình đã thực hiện.
Ví dụ: Điều kiện xã hội lương thấp hoặc thất nghiệp dẫn đến con người có thể lựa chọn một trong các biện pháp xử sự:
1.Trộm cắp;
2.Kiếm việc làm thêm;
3.Hạn chế khoản chi;
4.Tăng cường huy động nguồn viện trợ vv…
– Lỗi cố ý trực tiếp: Khoản 1 Điều 10 Bộ Luật hình sự 2015 định nghĩa: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi đó; và mong muốn hậu quả xảy ra.
Như vậy, về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và nhận thức rõ hậu quả tất yếu xảy ra hoặc có thể xảy ra;
Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra.
Ví dụ như tội cướp tài sản: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội; nhưng vẫn làm. Đồng thời; người phạm tội cũng mong muốn hậu quả xảy ra (chiếm đoạt được tài sản).
– Lỗi cố ý gián tiếp: Khoản 2 Điều 10 Bộ Luật hình sự 2015 định nghĩa: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra; tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Như vậy, về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và nhận thức rõ hậu quả có thể xảy ra.
Về ý chí: Người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng bỏ mặc không quan tâm đến hậu quả, hậu quả xảy ra như thế nào cũng chấp nhận.
Ví dụ: Tội bức tử.
– Lỗi vô ý vì quá tự tin: Khoản 1 Điều 11 Bộ Luật hình sự 2015 định nghĩa: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội; nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
Như vậy, Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi; và nhận thức rõ hậu quả có thể xảy ra.
Về ý chí: Người phạm tội loại trừ khả năng hậu quả xảy ra.
Cơ sở để người phạm tội loại trừ khả năng hậu quả xảy ra trong lỗi vô ý vì quá tự tin là người phạm tội chủ quan tin vào kinh nghiệm, thói quen, tin vào khả năng chuyên nghiệp vụ của mình. Nhưng hậu quả thiệt hại vẫn xảy ra trên thực tế.
Ví dụ: Người lái xe tin rằng mình sẽ vượt qua được đường sắt trước khi tàu hỏa đến.
– Lỗi vô ý vì cẩu thả: Khoản 2 Điều 11 Bộ Luật hình sự 2015 định nghĩa Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Với khái niệm trên cho thấy lỗi vô ý do cẩu thả được thể hiện như sau:
Về lý trí: Người phạm tội trong lỗi vô ý do cẩu thả do cẩu thả nên không thấy trước hậu quả của hành vi nhưng trong điều kiện phải thấy trước và có thể thấy được hậu quả đó. Như vậy, việc người phạm tội không thấy trước hậu quả của hành vi là do nguyên nhân chủ quan từ phía người phạm tội.
Ví dụ: Y tá A cần kiểm tra vắc xin kỹ trước khi tiêm như hạn sử dụng,… Tuy nhiên, do chủ quan, đã lấy nhầm lọ vắc xin hết hạn trong tủ thuốc dẫn đến hậu quả người được tiêm bị chết.
– Trường hợp hỗn hợp lỗi là trường hợp trong cấu thành tội phạm có hai loại lỗi (cố ý và vô ý) được quy định đối với những tình tiết khách quan khác nhau.
Ví du: CTTP tăng nặng tội cố ý gây thương tích (Khoản 2 và khoản 3).
– Sự kiện bất ngờ: Điều 20 BLHS 2015 quy định như sau:
Điều 20. Sự kiện bất ngờ
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trong trường hợp này; chủ thể không có nghĩa vụ phải thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi của mình; hoặc tuy có nghĩa vụ phải thấy trước; nhưng không có đủ điều kiện để thấy trước hậu quả đó.
Ví dụ: Anh A đang lái xe thì bất ngờ có 1 cô gái lao ra trước đầu xe anh A khiến anh A không kịp phản ứng mà đâm vào cô gái.
Động cơ phạm tội của mặt chủ quan của phạm tội
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý.
Động cơ phạm tội có thể được phản ánh trong CTTP tăng nặng hoặc giảm nhẹ là dấu hiệu định khung tăng nặng hoặc giảm nhẹ.
Ví dụ: Động cơ đê hèn là dấu hiệu định khung tăng nặng được phản ánh trong CTTP tăng nặng của tội giết người.
Ngoài ra, động cơ còn có thể được xem là những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS khi quyết định hình phạt.
Mục đích phạm tội
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan; mà người phạm tội đặt ra phải đạt được; khi thực hiện hành vi phạm tội. Là một trong những dấu hiệu của mặt chủ quan của tội phạm.
Chỉ xem xét đối với mục đích phạm tội của những hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp; vì chỉ trong trường hợp này người phạm tội mới có sự mong muốn gây ra tội phạm để đạt được những mục đích nhất định.
Mục đích được phản ánh trong CTTP ở những trường hợp sau:
– Trường hợp dấu hiệu hậu quả chưa phản ánh được mục đích phạm tội chính của người phạm tội.
Ví dụ: Hành vi khủng bố tuy xâm phạm đến tính mạng con người; nhưng chưa phải là mục đích chính của người phạm tội.
– Trường hợp dấu hiệu hành vi khách quan không phản ánh được mục đích phạm tội. Đây là những trường hợp hành vi khách quan giống nhau; nhưng lại được thực hiện nhằm những mục đích khác nhau.
Ví dụ: Cùng hành vi xuất cảnh trái phép; nhưng có trường hợp nhằm chống chính quyền nhân dân và có trường hợp không nhằm mục đích đó.
Trong những trường hợp mục đích phạm tội được quy định trong CTTP; mục đích phạm tội trở thành dấu hiệu bắt buộc.
Câu hỏi thường gặp
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm. Đó là những biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội; bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.
Mặt chủ quan của tội phạm có những dấu hiệu: lỗi, mục đích và động cơ. Trong đó; lỗi được phản ánh trong tất cả cấu thành tội phạm (CTTP).
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý.
Động cơ phạm tội có thể được phản ánh trong CTTP tăng nặng hoặc giảm nhẹ là dấu hiệu định khung tăng nặng hoặc giảm nhẹ.
Ngoài ra; động cơ còn có thể được xem là những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS khi quyết định hình phạt.
Điều 20. Sự kiện bất ngờ
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trong trường hợp này; chủ thể không có nghĩa vụ phải thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi của mình; hoặc tuy có nghĩa vụ phải thấy trước; nhưng không có đủ điều kiện để thấy trước hậu quả đó.
Liên hệ Luật sư X
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của Luật Sư về vấn đề:
Mặt chủ quan của tội phạm là gì?
Hi vọng bài viết trên sẽ giúp ích cho bạn đọc.
Nếu có vấn đề pháp lý cần giải đáp vui lòng liên hệ Luật sư X: 0833102102
Xem thêm: Chủ thể của tội phạm là gì?